1 2 3 4 5 6 #
Hôm nay: 183
Tổng số truy cập: 447732
PHÁP LUẬT VỀ XÂM HẠI TRẺ EM Ở VIỆT NAM
Ngày xuất bản: 31/05/2022

Trong những năm gần đây, tình trạng bạo lực trẻ em trong gia đình ngày một gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ. Nguyên nhân trước hết là nhận thức của gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần nào bị xem nhẹ. Sự dồn nén tâm lý của một người do những khó khăn về kinh tế hoặc vì các chất kích thích cũng là nguyên nhân dẫn đến bạo hành trẻ em. Thời gian phải giãn cách xã hội do Covid-19 vừa qua cho thấy, sự hạn chế di chuyển và các biện pháp cách ly khác kèm theo áp lực về xã hội, kinh tế hiện hữu đã làm gia tăng bạo lực gia đình đặc biệt là ở trẻ em và phụ nữ.

Theo thống kê từ Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, trong 6 tháng đầu năm 2021, Tổng đài đã tiếp nhận 171.019 cuộc gọi đến, trong đó có 706 ca phải hỗ trợ, can thiệp (tăng 299 ca so với cùng kỳ năm trước). Trong các ca hỗ trợ, can thiệp cho trẻ em, có 362 ca bạo lực trẻ em, chiếm 51,27% (cao hơn cùng kỳ năm 2020 là 167 ca, tương đương 3,36%); 122 ca xâm hại tình dục trẻ em, chiếm 17,28% (tăng hơn cùng kỳ năm trước 13 ca). Trong đó, tỷ lệ trẻ em bị bạo lực trong gia đình tăng 3% so với cùng kỳ năm 2020, đây là điều đáng báo động về phương pháp giáo dục của cha mẹ, người chăm sóc đối với trẻ em. Đối với các ca bị xâm hại tình dục, có 71 ca hiếp dâm trẻ em, chiếm 58,2% (tăng 16 ca so với cùng kỳ 2020), 51 ca dâm ô trẻ em, chiếm 25,4% (tăng 21 ca so với cùng kỳ năm 2020). Tỷ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục bởi bạn bè, người quen chiếm 31,1%; bởi người thân trong gia đình vẫn tương đối cao, chiếm 23,8% (tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020).

Thực trạng và tình hình bạo lực đối với trẻ em không chỉ dừng lại ở câu chuyện bạo lực về thể chất mà còn liên quan đến yếu tố về tinh thần. Những vết thương thể chất có thể lành theo năm tháng nhưng vết thương về mặt tinh thần thì sẽ để lại di chứng rất nhiều năm nếu không có sự can thiệp một cách triệt để và có những giải pháp để tư vấn tâm lý, trị liệu tâm lý cho trẻ em đang trong hoàn cảnh bị bạo lực. Trẻ em thuộc nhóm yếu thế, phụ thuộc vào người lớn, vào người sinh ra và đang nuôi dưỡng các em nên khả năng tự bảo vệ, nhận ra bị bạo lực và những quyền của mình như thế nào bị hạn chế.

Trung tá Đào Trung Hiếu, chuyên gia nghiên cứu tội phạm học Bộ Công an, cho rằng hiện nay nhiều gia đình vẫn duy trì nếp suy nghĩ kỷ luật bằng bạo lực với trẻ em, “thương cho roi, cho vọt”, dùng vũ lực, đòn roi mỗi khi con trẻ nghịch ngợm hay có kết quả học tập không như mong muốn… Tuy nhiên, ranh giới giữa dạy bảo và trút giận rồi dẫn tới bạo lực là khá mong manh. Khi không kiềm chế được cơn giận, muốn làm mọi việc để giải toả bức xúc tâm lý, nhiều người có thể gây ra tội lỗi (tổn thương đối với trẻ); đến khi cơn giận lắng xuống thì hậu quả đã xảy ra, hối hận thì cũng muộn màng. Chính vì vậy, những gì cổ hủ, đi ngược lại với quyền cơ bản của con người cần phải thay thế, loại bỏ. Việc lạm dụng đòn roi để giáo dục con người thay vì tình thương yêu của cha mẹ là vi phạm đạo đức và pháp luật về quyền trẻ em.

Trước bối cảnh xã hội như vậy, pháp luật về xâm hại trẻ em ở Việt Nam là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, nó không chỉ là công cụ để các cơ quan quản lý nhà nước xử lý những hành vi xâm hại trẻ em mà còn là căn cứ điều chỉnh nhận thức, hành vi của con người, đưa ra các biện pháp phòng tránh, chống lại tội phạm xâm hại trẻ em đối với mỗi cá nhân, tổ chức. Pháp luật đã kịp thời có mặt trong mọi khía cạnh của vấn đề xâm hại trẻ em như xâm hại tinh thần, xâm hại thể chất và xâm hại tình dục, trên tinh thần luôn cập nhật, đổi mới, phong phú, đa dạng phù hợp với tình hình xã hội.

1. Xâm hại tinh thần

Điều 37 Hiến pháp 2013 nêu rõ các hành vi xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ bê, lạm dụng, bóc lột sức lao động hay các hành vi khác xâm hại đến quyền trẻ em đều bị nghiêm cấm. Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại về thể chất, tình cảm, tâm lý, danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác.

Xâm hại tinh thần là hành vi xâm hại đến tâm lý, tình cảm và quyền trẻ em bằng lời nói, hành động gây tổn thương, lo sợ, hoang mang, làm lệch lạc suy nghĩ, nhận thức của trẻ…Những hành vi này mặc dù không tác động trực tiếp đến sức khỏe về mặt thể chất nhưng nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và sự phát triển tâm lý của trẻ em.

Những hành vi làm tổn hại tinh thần trẻ em bằng lời nói bao gồm: chửi mắng, bôi nhọ, sỉ nhục, xúc phạm, dựng chuyện, bịa đặt, nói xấu, bêu rếu xung quanh, đe dọa, uy hiếp... Những hành vi này có thể xuất hiện ở bất kì môi trường, mối quan hệ nào, từ gia đình: bố mẹ mắng chửi con cái, các thành viên trong gia đình dọa nạt gây sức ép tâm lý lên con cháu...; từ nhà trường: thầy cô quát mắng, đe dọa học sinh, bạn bè bêu rếu nói xấu, tẩy chay lẫn nhau...; đến xã hội: so sánh, chê bai, gây sức ép tâm lý lên những đứa trẻ, thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh, con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi... Để loại bỏ vấn nạn này, trước hết Luật Trẻ em 2016 đã thể hiện rõ quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền trẻ em:

" Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển.", "Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật" (theo Điều 12 Luật Trẻ em 2016 và khoản 2 Điều 6 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 quy định);

Những hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm:

* Tước đoạt quyền sống của trẻ em.

* Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn.

* Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác.

* Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình.

* Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em..

* Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em về trí tuệ, nhận thức.

* Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em.

* Lợi dụng chế độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành cho trẻ em để trục lợi.

* Lấn chiếm, sử dụng cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em sai mục đích hoặc trái quy định của pháp luật.

* Từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, điều trị trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại danh dự, nhân phẩm.

Hệ thống 25 quyền của trẻ em quy định tại mục 1 Chương II, trong đó có quyền sống, quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ, quyền được học tập, giáo dục, vui chơi, giải trí, bảy tỏ ý kiến và được bảo đảm an sinh xã hội... Nhà nước là tổ chức đầu tiên được luật quy định trách nhiệm bảo đảm quyền trẻ em bằng các chính sách, biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện, khuyến khích các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác cùng tham gia ủng hộ, đầu tư trong mọi lĩnh vực để trẻ em được phát triển toàn diện, lành mạnh và công bằng. Luật trẻ em 2016 cũng quy định cụ thể các yêu cầu bảo vệ trẻ qua ba cấp độ: phòng ngừa bằng truyên truyền phổ biến hậu quả của hành vi vi phạm để cộng đồng gia đình nhà trường có trách nhiệm quan tâm, bảo vệ con em mình, trang bị kiến thức cho gia đình, cộng đồng phòng ngừa, phát hiện các yếu tố gây hại đồng thời xây dựng môi trường an toàn cho trẻ và tư vấn, giáo dục kỹ năng tự vệ cho trẻ; cấp độ hỗ trợ đối với trẻ có nguy cơ mất an toàn nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ; cuối cùng là can thiệp tích cực bằng các biện pháp bảo vệ, chăm sóc, theo dõi đối với trẻ em bị xâm hại. Từ đó đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan, tổ chức luôn quan tâm, lồng ghép các vấn đề vể trẻ em trong các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, các lĩnh vực khác, theo dõi, giám sát việc thực hiện các chính sách đảm bảo quyền trẻ em, hỗ trợ, tạo điều kiện, hướng dẫn mọi chủ thể việc thực hiện quyền của trẻ. Gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục có trách nhiệm trau dồi kiến thức, kỹ năng giáo dục trẻ em về đạo đức, nhân cách, quyền và bổn phận của trẻ em; tạo môi trường an toàn, phòng ngừa tai nạn thương tích cho trẻ em; phòng ngừa trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, có nguy cơ bị xâm hại hoặc bị xâm hại; tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em; phát hiện, tố giác, thông báo cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi xâm hại trẻ em, trường hợp trẻ em có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại trong và ngoài gia đình...

Ngoài ra, Luật Trẻ em 2016 có nhắc đến chủ thể đặc biệt trong việc tham gia vào các vấn đề trẻ em: chính là trẻ em. Tùy theo độ tuổi, các vấn đề phải có sự tham gia của trẻ bao gồm: văn bản, chương trình, quy hoạch có liên quan theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Xây dựng và thực hiện quyết định của các tổ chức chính trị - xã hội; Quyết định, hoạt động của nhà trường, cơ sở giáo dục khác, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; Áp dụng biện pháp, cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ trẻ em của gia đình. Trẻ được bảo đảm tham gia các vấn đề trên ở mọi môi trường: gia đình, nhà trường, các cơ sở giáo dục khác và cả ngoài xã hội. Như vậy, trẻ em không chỉ được các cá nhân, tổ chức khác quan tâm bảo vệ mà còn được tôn trọng, tạo điều kiện để chủ động phát biểu ý kiến, đề đạt nguyện vọng một cách tích cực, lành mạnh phục vụ cho việc thực hiện, bảo toàn các quyền cơ bản của mình. Bởi trong nhiều hoàn cảnh, hơn ai hết chỉ có chính trẻ em mới tự cảm nhận, phát hiện ra các vấn đề của mình, hay chính những bạn bè đồng lứa, nếu không có cơ chế đảm bảo cho trẻ tự lên tiếng thì việc bị xâm hại của trẻ sẽ ngày một nghiêm trọng và chính trẻ có thể rơi vào tự kỉ, trầm cảm.

Ví dụ việc đi làm bận rộn của bố mẹ, thờ ơ của giáo viên trên lớp, khoảng cách của các thành viên trong gia đình làm cho trẻ ngại giao tiếp, chưa đủ tin tưởng để bày tỏ, tâm sự sẽ khiến cho những áp lực, tổn thương bị dồn nén và có khi xảy ra những hành vi tự hại, dễ bị dụ dỗ như sa vào các tệ nạn cờ bạc, rượu bia, ma túy, chơi điện tử để giải tỏa, hay tự làm đau bản thân thậm chí là tự tử. Do đó, việc dành thời gian cho trẻ của cha mẹ, tâm sự những câu chuyện của bản thân để khơi gợi thói quen tâm sự của con cái; việc hỏi han quan tâm của giáo viên một cách tế nhị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nắm bắt tâm lý, vấn đề của trẻ để có những hành động, biện pháp tiếp theo cho phù hợp, đó là những hành động đơn giản, gần gũi, thiết thực trước tiên so với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân xa lạ khác.

Bên cạnh đó, pháp luật còn có những quy định xử lý đối với những hành vi vi phạm. Nhằm thể hiện sự quan tâm đối với các vấn đề xã hội, quyền và lợi ích của công dân, đặc biệt là trẻ em, ngày 30/12/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em (sau đây gọi tắt là Nghị định 130). Nghị định này quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo từng chức danh đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em không quy định tại Nghị định này áp dụng theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước có liên quan.

So sánh với Nghị định số 144/2013/NĐ-CP, ngày 29/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước đây thì Nghị định số 130/2021 quy định chi tiết, rõ ràng hơn, có sự phân hóa cụ thể đối với từng loại, nhóm loại hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực trẻ em; điển hình như việc dành riêng một điều quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về cấm bạo lực đối với trẻ em (tại Điều 22)... Đồng thời, Nghị định số 130/2021 cũng bổ sung một số quy định hoàn toàn mới như quy định về xử phạt các hành vi vi phạm về quyền của trẻ em được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội, quyền được bày tỏ ý kiến, quyền giữ gìn, phát huy bản sắc (tại Điều 27); vi phạm quy định về cấm công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em (tại Điều 31); vi phạm trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng (tại Điều 36)… Đặc biệt, Nghị định 130 nâng gấp đôi mức xử phạt nhóm hành vi bạo lực với trẻ em so với nghị định cũ. Theo đó, mức phạt tiền từ 10-20 triệu đồng áp dụng cho các hành vi bạo lực với trẻ em như: gây tổn hại về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, lăng mạ, chửi mắng, đe dọa, cách ly ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em. Các hành vi gồm: cô lập, xua đuổi hoặc dùng các biện pháp trừng phạt để dạy trẻ em gây tổn hại về thể chất, tinh thần của trẻ em; thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh, con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn hại về tinh thần theo Nghị định 130 cũng sẽ bị phạt từ 10-20 triệu đồng. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em là 50 triệu đồng. Mức phạt tiền đối với tổ chức vi phạm gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân vi phạm.

Không chỉ có ngôn ngữ, lời nói tiêu cực trực tiếp trước mặt trẻ, còn có những ngôn từ, hành vi xâm hại tinh thần trẻ trên một môi trường rộng rãi, phổ biến, khó kiểm soát hơn hiện nay, đó là không gian mạng. Những đứa trẻ bị xúc phạm, uy hiếp bằng các phương tiện điện tử như gọi điện, nhắn tin, đe dọa, bêu rếu, đăng tải hình ảnh, đoạn phim đã cắt ghép, chỉnh sửa, tiết lộ những câu chuyện riêng, thông tin cá nhân trên mạng xã hội... Việc phát tán thông tin rộng rãi trên mạng xã hội không giới hạn thời gian, không gian, đối tượng sẽ gây nên sức ép tâm lý vô cùng lớn đối với trẻ em, bởi khi đó những đứa trẻ có thể bị chỉ trích, trách móc, mắng nhiếc từ toàn xã hội, từ những người xa lạ chứ không chỉ trong phạm vi gia đình, nhà trường, bạn bè hay những người thân quen. Bên cạnh đó với tình hình dịch bệnh như vài năm gần đây, học sinh phải học trực tuyến, tiếp xúc với máy tính, điện thoại, các trang mạng xã hội thường xuyên, đã có không ít những mã độc, đường link xấu được cài gắm kích thích sự tò mò của trẻ em, khiến chúng vô tình để lộ thông tin cá nhân hay có những thông tin lệch lạc, nhận thức sai trái dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Những đối tượng có mục đích xấu gây tổn thương, xúc phạm hay lừa đảo, vụ lợi nhằm chiếm đoạt tài sản, mua bán thông tin của người khác, đặc biệt là trẻ em thường lợi dụng mạng xã hội, nghĩ rằng sẽ không bị phát hiện, dễ hành động và đạt được hiệu quả cao, từ đó đăng tải, biểu đạt mọi thông tin không kiểm soát phục vụ mục đích của mình.

Nắm bắt được tình trạng này, để bảo vệ những chủ thể tham gia hoạt động trên không gian mạng, trong đó có trẻ em, đối tượng dễ bị dụ dỗ lợi dụng, Quốc hội đã thông qua và ban hành Luật an ninh mạng 2018. Luật này quy định nhiều hành vi bị nghiêm cấm trên môi trường mạng. Trong đó, nghiêm cấm việc sử dụng không gian mạng để thực hiện các hành vi như thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống bao gồm: Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác... Điều 29 trong luật có quy định về bảo vệ trẻ em trên không gian mạng, trong đó khẳng định trên không gian mạng trẻ em có quyền được bảo đảm an toàn hoạt động, giữ bí mật cá nhân. Đặt ra trách nhiệm đối với chủ quản hệ thống thông tin, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ khác: kiểm soát nội dung thông tin không gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em; ngăn chặn việc chia sẻ và xóa bỏ thông tin đó; kịp thời thông báo, phối hợp với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an để xử lý. Cơ quan, tổ chức, cha mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và cá nhân khác liên quan có trách nhiệm bảo đảm quyền của trẻ em, bảo vệ trẻ em khi tham gia không gian mạng theo quy định của pháp luật về trẻ em. Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và các cơ quan chức năng có trách nhiệm áp dụng biện pháp để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi sử dụng không gian mạng gây nguy hại cho trẻ em, xâm phạm đến trẻ em, quyền trẻ em.

Để có những biện pháp ngăn chặn, xử lý vi phạm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử. Trước hết để những thông tin xấu không tiếp cận được trẻ em thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân cần có những động thái ngăn chặn, việc không áp dụng những biện pháp này như việc: Không có biện pháp ngăn ngừa trẻ em truy nhập thông tin không có lợi trên môi trường mạng khi cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin;

không có dấu hiệu cảnh báo đối với sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin mang nội dung không có lợi cho trẻ em. Tổ chức sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Khi đã tiếp cận và thực hiện hành vi làm mất an toàn, bí mật thông tin của tổ chức, cá nhân khác được trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường mạng, cá nhân bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng; mức phạt đó cũng áp dụng đối với cá nhân có hành vi lợi dụng các phương tiện giao tiếp trực tuyến trên mạng Internet, mạng viễn thông nhằm chiếm đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân có trị giá dưới 2.000.000 đồng. Ví dụ như có những khóa học trên mạng được quảng cáo, tổ chức với giá sáu, bảy trăm nghìn nhưng thời gian học không đảm bảo, chất lượng bài giảng kém không đem lại giá trị gì cho học sinh, làm mất thời gian, tiền của của các em. Ngoài ra còn có nhiều hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức như:

Thu thập thông tin cá nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin đó;

Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;

Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;

Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn;

Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc;

Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm;

Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm...

Nhằm tăng tính răn đe, trừng phạt đối với những hành vi xâm hại tinh thần trẻ em cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc và Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể những tội phạm xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của con người và những hình phạt tương ứng theo từng mức độ phạm tội, trong đó có trẻ em như:

  • Tội xâm phạm quyền tự do của con người (Điều 159, từ Điều 164 đến 167): xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác; xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; xâm phạm quyền bình đẳng giới; xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo; xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân... người phạm tội có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

* Tội làm nhục người khác, xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (Điều 155);

* Tội vu khống, bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm; còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. (Điều 156)

Như vậy, để phòng chống xâm hại trẻ em về tinh thần cũng đã có không ít điều khoản, văn bản luật pháp quy định, đề cao trách nhiệm các cơ quan, tổ chức cá nhân quan tâm, giám sát thực hiện bảo vệ trẻ em từ phòng ngừa bằng các quy định, hướng dẫn, định hướng hành vi, tư tưởng; xử lý hành chính, cảnh cáo, răn đe đến các chế tài phạt tù, cấm túc nghiêm khắc. Những quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong thời điểm công nghệ số bùng nổ, dịch bệnh ảnh hưởng và trẻ em phải thường xuyên học tập trực tuyến trên thiết bị điện tử. Nhằm bảo đảm hệ thống pháp luật đi vào thực tiễn có hiệu quả cần đến sự phối hợp chặt chẽ, giáo dục tuyên truyền, áp dụng linh hoạt, thường xuyên của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Sống trong sự quan tâm, chăm sóc, một môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh là điều kiện thuận lợi để trẻ em phát triển toàn diện, phát huy hết khả năng của bản thân, nâng cao cơ hội chọn lựa nhân tài phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị của đất nước.

2. Xâm hại thể chất

Xâm hại thể chất là hành vi tác động vào thân thể, sức khỏe của trẻ với các mục đích khác nhau như gây thương vong, tổn hại đến sức khỏe hoặc trừng phạt hà khắc, trục lợi cá nhân hoặc thỏa mãn nhu cầu lợi ích khác của tổ chức, cá nhân. Ví dụ: Đánh đập, đấm đá, dùng dao cứa lên cơ thể, làm bỏng, bóp cổ, lắc trẻ thô bạo, bắt nuốt hoặc có hành động khác gây tổn thương cơ thể; bắt nhịn ăn, nhịn uống, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; bắt sống ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm; hay buôn bán, trao đổi, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em... Những hành vi này nhìn chung đều mang tính chất bạo lực, có thể là bạo lực xã hội - hành vi giữa những người xa lạ với nhau, bạo lực gia đình – giữa những người thân thích trong gia đình với con cháu, bạo lực học đường – giữa bạn bè với nhau, thầy cô với học sinh.

2.1. Bạo lực xã hội

Bạo lực xã hội là những hành vi xâm phạm từ mọi đối tượng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe của trẻ; hành vi mua bán, trao đổi, chiếm đoạt trẻ em... Để bảo vệ trẻ em không bị xâm hại, Luật trẻ em 2016 đã quy định rõ về quyền trẻ em được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ; được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động; được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt... và trách nhiệm của mọi đối tượng trong việc thực hiện, bảo vệ quyền trẻ em. Chính phủ ban hành Nghị định130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em. Trong đó:

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi bắt trẻ em làm công việc gia đình quá sức, quá thời gian, ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em;

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức, ép buộc trẻ em đi xin ăn; cho thuê, cho mượn trẻ em hoặc sử dụng trẻ em để xin ăn.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Bắt trẻ em lao động trước tuổi, quá thời gian, làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật; Bóc lột sức lao động trẻ em.

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Không thực hiện, cản trở phụ nữ mang thai tiếp cận dịch vụ y tế để được tư vấn sàng lọc, phòng ngừa các bệnh tật bẩm sinh cho trẻ em; không chấp hành các quyết định, biện pháp, quy định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền để bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe của trẻ em; áp dụng phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em; không ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em.

Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Cung cấp sản phẩm, dịch vụ không an toàn, không thân thiện, gây tổn hại cho trẻ em; bán, cho trẻ em sử dụng chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: không thông báo, cảnh báo những nơi nguy hiểm, độc hại, dễ cháy, nổ, điện giật, rơi, ngã và các nguy cơ khác dẫn đến tai nạn, thương tích cho trẻ em; không tuân thủ đầy đủ, kịp thời các biện pháp bảo đảm an toàn về sản xuất, kinh doanh, lưu hành các phương tiện giao thông vận tải dẫn đến tai nạn, thương tích cho trẻ em.

Có thể thấy, nhiều vụ bạo hành trẻ em để kéo dài nhiều năm, khi tình trạng ở mức báo động nghiêm trọng mới được các phương tiện thông tin đại chúng phát giác, phải chăng đó là sự thờ ơ, vô cảm hoặc tâm lý nể nang, lo sợ bị trả thù của người xung quanh khiến họ không dám can thiệp hoặc tố giác hành vi phạm pháp này. Do đó, cần tăng cường trách nhiệm và năng lực của gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc chủ động phòng ngừa có hiệu quả các hành vi bạo lực, xâm hại đối với trẻ em…

Bên cạnh việc nâng mức phạt đối với hành vi bạo lực trẻ em, Nghị định 130 còn quy định rõ mức phạt đối với các hành vi cố tình “làm ngơ”, vô trách nhiệm trước việc trẻ em bị bạo lực. Cụ thể, Điều 28 Nghị định 130 quy định phạt tiền từ 5-10 triệu đồng đối với một trong các hành vi: không thông báo, không cung cấp hoặc che giấu thông tin về việc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực và có nguy cơ bị xâm hại khác cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Quy định này được nhiều người đồng tình và đánh giá cao.

Bộ luật Hình sự 2015 cũng đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại về thân thể bằng việc quy định trừng phạt, trách nhiệm hình sự đối các tội phạm như tội giết người, giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, đe dọa giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hành hạ người khác, tội mua bán người dưới 16 tuổi, tội đánh tráo người dưới 01 tuổi, tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi, tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người...

Mua bán trẻ em là một trong những hình thức bạo lực, xâm hại thân thể trẻ em bị luật pháp nghiêm cấm và quy định trong nhiều văn bản: Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Luật Trẻ em 2016; Luật phòng, chống mua bán người 2011 đã quy định đầy đủ các tội liên quan đến buôn bán trẻ em được thực hiện trong quá trình buôn bán người. Luật Phòng, chống mua bán người không giới hạn việc mua bán người chỉ đối với phụ nữ và trẻ em, cũng không còn xác định cụ thể việc mua bán người là phải ra nước ngoài hoặc qua biên giới, và có đề cập đến những mục đích mua bán người khác chứ không chỉ mại dâm. Việc ban hành Luật Phòng, chống mua bán người có ý nghĩa chính trị lớn cả về đối nội cũng như đối ngoại, thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc chiến chống tội phạm mua bán người nói chung và phòng chống buôn bán trẻ em nói riêng.

Luật gồm 8 Chương với 58 Điều quy định việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người và các hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người; tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân; hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người; trách nhiệm của Chính phủ và các bộ ngành, địa phương trong công tác phòng, chống mua bán người.

Điểm nổi bật trong quy định của Luật với việc đưa ra 12 hành vi bị nghiêm cấm được coi là cơ sở pháp lý để các cơ quan chức năng căn cứ vào mức độ, tính chất vi phạm, xử lý theo quy định của pháp luật. Theo đó, nghiêm cấm: Mua bán trẻ em theo quy định tại Điều 151, 152 và Điều 153 của Bộ luật hình sự; cưỡng bức lao động - dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ; lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; trả thù, đe dọa trả thù nạn nhân, người làm chứng, người tố giác, người tố cáo, người thân thích của họ hoặc người ngăn chặn hành vi; lợi dụng hoạt động phòng, chống mua bán người để trục lợi…

Nội dung phòng ngừa của Luật trước hết là việc thông tin, tuyên truyền giáo dục, quản lý các hoạt động về phòng, chống mua bán người, trách nhiệm tham gia phòng ngừa mua bán người của cá nhân, gia đình, nhà trường, các cơ sở giáo dục, cơ quan thông tin đại chúng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Khi hành vi vi phạm đã xảy ra cần kịp thời phát hiện, tố giác, tố cáo, ngăn chặn và xử lý vi phạm tùy theo tính chất, mức độ do pháp luật xử lý hành chính, pháp luật hình sự về nội dung có liên quan quy định

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ căn cứ để xác định một người có thể được coi là nạn nhân trong vụ mua bán. Nạn nhân là người bị xâm hại bởi các hành vi theo quy định mà khi người đó là đối tượng bị mua bán, chuyển giao, tiếp nhận theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 3 hoặc người đó là đối tượng bị tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp theo quy định tại khoản 3 Điều 3 của Luật này.

Khi đã có căn cứ cho rằng một người bị mua bán thì cơ quan, đơn vị cá nhân có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để giải cứu; trường hợp người đó bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm và tài sản thì áp dụng các biện pháp bảo vệ. Nạn nhân khi đã được giải cứu sẽ được nhận hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và chi phí đi lại; hỗ trợ y tế; hỗ trợ tâm lý; trợ giúp pháp lý; nạn nhân là công dân Việt Nam còn được hỗ trợ học văn hóa, học nghề; trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn.

Theo số liệu do Bộ Công an cung cấp, từ năm 2010 đến tháng 6/2021, Việt Nam phát hiện gần 3.500 vụ, với 5.000 đối tượng, lừa bán gần 7.500 nạn nhân. Tội phạm mua bán người đã xảy ra trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố, nạn nhân không chỉ là phụ nữ, trẻ em, mà đã xuất hiện tình trạng mua bán nam giới, mua bán trẻ sơ sinh, bào thai, mua bán nội tạng, đẻ thuê... Trong đó, có nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh, bào thai sang Trung Quốc; mua bán nội tạng; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Gần 85% số vụ mua bán người ra nước ngoài, tập trung chủ yếu qua các tuyến biên giới giữa Việt Nam với Cam-pu-chia, Lào và Trung Quốc, trong đó, sang Trung Quốc chiếm 75%. Ở trong nước, bọn buôn người đôi khi lại chính là cha mẹ, thành viên trong gia đình, hoặc là các mạng lưới buôn người quy mô nhỏ; những đối tượng này bóc lột đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam – trong đó có trẻ em lang thang và trẻ em khuyết tật – biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động, mặc dù có rất ít thông tin về các vụ việc này. Một nghiên cứu cho thấy 5.6% trẻ em Việt Nam có thể đã từng bị cưỡng bức lao động hoặc bóc lột có dấu hiệu của buôn người hoặc trong bối cảnh di cư, trong đó trẻ em nông thôn và các cộng đồng nghèo đói có nguy cơ đặc biệt cao. Bọn buôn người bóc lột trẻ em dưới hình thức cưỡng bức lao động trong ngành may mặc, tại đó các em bị ép buộc làm việc thông qua hình thức đe dọa và hăm dọa. Bọn buôn người ép buộc trẻ em hành nghề bán rong và ăn xin trên đường phố ở các trung tâm đô thị lớn. Bọn buôn người biến một số trẻ em trở thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc lao động để trừ nợ trong các nhà hàng, quán nhậu...

Thực tế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khách quan là do tình hình trên thế giới, khu vực tác động, do siêu lợi nhuận thu được từ hoạt động mua bán người; mất cân bằng về giới; tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự phân hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, thiếu hiểu biết, nên một bộ phận người dân, nhất là phụ nữ, trẻ em bị đối tượng phạm tội dụ dỗ, lừa gạt. Song cũng không thể phủ nhận nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng trên là do việc giáo dục đạo đức và truyền thống văn hóa, dân tộc ở phạm vi gia đình cũng như toàn xã hội chưa được coi trọng làm cho một bộ phận dân cư sa vào lối sống vật chất, xem thường đạo lý, bất chấp pháp luật; công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở một số lĩnh vực còn bất cập, sơ hở, để tội phạm lợi dụng hoạt động, nhất là trong quản lý các lĩnh vực: người nước ngoài, nhân hộ khẩu, biên giới, xuất nhập cảnh, hôn nhân và cho, nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài…

Ví dụ như vừa qua ngày 11/01/2022, Đồn Biên phòng Bạch Đích, huyện Yên Minh (Hà Giang) đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự “Mua bán người dưới 16 tuổi” đối với hành vi lừa bán người sang Trung Quốc từ tháng 1/2019. Hay tại Nghệ An, đầu tháng 10/2021, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Nghệ An phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ liên quan, giải cứu thành công cháu Lô Thị M.C. (SN 2005), khi cháu bị bán sang bên kia Trung Quốc, làm nô lệ tình dục cho một người đàn ông bản địa từ cách đây 2 năm về trước, chủ mưu là bố đẻ và dì ruột cần tiền để chữa bệnh.

2.2. Bạo lực gia đình

Những hành vi bạo lực tàn nhẫn xuất hiện ngoài xã hội thì có thể hiểu do đó là nơi tổng hòa nhiều mối quan hệ, nhiều tầng lớp, mức độ văn hóa, nhận thức khác nhau, họ hành động vì nhiều mục đích. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực này cũng xuất hiện từ trong gia đình, nơi sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên của biết bao thế hệ trẻ em, nơi mà đáng ra chúng được bảo vệ tốt nhất, tự do phát triển mà không phải đề phòng bất cứ điều gì. Bạo lực gia đình là một hình thức xâm hại xảy ra trong gia đình hoặc trong một mối quan hệ gần gũi, do những người trong gia đình như ông bà, cha mẹ, anh chị em, người thân tác động đến thân thể, sức khỏe, tính mạng của trẻ. Có nhiều lý do dẫn đến bạo lực gia đình, nhưng cho dù vì lý do gì đi nữa thì bạo lực gia đình cũng bị nghiêm cấm và không nên được che giấu.

Cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ trẻ hoặc bỏ mặc, bỏ rơi sao nhãng trẻ cũng là một hình thức xâm hại. Khi cha mẹ không biết cách xử lý các vấn đề hoặc cảm xúc của mình, họ có thể trở nên bực tức giận dữ hoặc buồn phiền. Đôi khi họ sẽ trút những cảm xúc này lên trẻ bằng bạo lực. Một đứa trẻ bị xâm hại thể chất có thể có các vết bầm tím, vết cắt, sẹo, vết bỏng, gãy xương hoặc những vết cắn trên cơ thể; sợ người khác hoặc sợ một địa điểm nào đó; luôn cảm thấy lo sợ... Việc phải chứng kiến người lớn có các hành vi bạo lực trong gia đình sẽ làm tổn thương trẻ. Trẻ học được cách người lớn hành xử như thế nào thông qua việc quan sát cha mẹ mình. Khi trẻ nhìn thấy một ai đó làm tổn hại đến người mà họ yêu, trẻ sẽ học được rằng đây là một cách mà người lớn đối xử với người khác. Những đứa trẻ phải chứng kiến bạo lực trong gia đình thường có xu hướng bạo lực hoặc bị bạo lực cao hơn khi các em lớn lên .

Để bảo vệ trẻ em trong mỗi gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định nghĩa vụ của cha mẹ, cha mẹ nuôi làNghiêm cấm các hành vi bạo lực gia đình, lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi, trong đó có quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên khi bị kết án về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con; xúi giục, ép buộc con có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Nhiều thói quen, quan niệm của người lớn về giáo dục trẻ bằng “roi, vọt”, hung bạo và cho đó là bình thường “thương cho roi cho vọt”, chính sự thiếu hiểu biết và “lạm quyền” của người lớn đã gây tổn hại cho trẻ. Điển hình là vụ việc bố đánh con gái 6 tuổi ở quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội dẫn đến tử vong xảy ra ngày 16/9/2021.

Bạo lực gia đình, sự bất bình đẳng giới đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử và tình hình an ninh, trật tự xã hội. Cụ thể như vụ việc hồi tháng 9/2021 ở Vạn Phúc, Hà Đông, Hà Nội, phát hiện cháu bé 12 tuổi thường xuyên bị mẹ có hành vi ngược đãi, hành hạ như dùng tay hoặc ống nhựa, gậy gỗ, dây điện… đánh đập. Người phụ nữ này còn thường xuyên bỏ bê, không chăm sóc các con của mình.

Trẻ em bị bạo hành thường ngay trong gia đình, nơi vốn được coi là an toàn đối với các em. Và chính người thân, bố, mẹ, bố dượng, mẹ kế là những người bạo hành đối với trẻ em trong gia đình, thậm chí có những trường hợp thương tật hoặc tử vong. Thống kê của Bộ Công an cũng cho thấy 97% vụ việc bạo lực do chính bố mẹ, cha dượng, mẹ kế, người thân của các em gây ra. Nạn bạo hành đối với trẻ em chỉ có thể bị đẩy lùi khi cộng đồng thay đổi cách ứng xử với trẻ em, chính từ trong mỗi gia đình phải ngăn chặn những hành vi đánh đập, xúc phạm trẻ.

Theo bà Nguyễn Phương Linh, giám đốc Viện Nghiên cứu quản lý phát triển bền vững MSD, những cái chết thương tâm của trẻ vì bạo hành gia đình thời gian qua, dường như vẫn chưa đủ sức cảnh báo những người làm cha mẹ. "Họ có mặt đâu đó trong đám đông lên án và phẫn nộ kẻ khác, nhưng ngay sau đó vẫn đánh con", bà Linh nhận xét. Thậm chí, các nghiên cứu quy mô lớn trên thế giới đã chỉ ra, 2/5 số phụ huynh được hỏi thừa nhận đánh trẻ mạnh hơn dự định. Trái với suy nghĩ "yêu cho roi cho vọt" của cha mẹ, hơn 90% trong số 5.400 ý kiến của trẻ em khắp cả nước cho dự thảo Luật Phòng chống bạo lực gia đình (sửa đổi) do MSD thực hiện tháng 11/2021, cho thấy mọi hình thức như đánh bằng tay hay bằng các vật dụng, giật tóc, mắng, so sánh, chửi bới, hay các hình thức tra tấn khác đều là bạo lực, dù cha mẹ có nhân danh đó là yêu thương. Trong nghiên cứu, em Mai, 14 tuổi, ở Quảng Ngãi chia sẻ, ở quê em bố mẹ thường dùng đòn roi để răn đe ngày còn nhỏ. Lúc lớn lên, các em thường chịu những lời cay nghiệt. Mai thường bị mắng: "Sao mày không chết đi? Tao không nên đẻ ra mày. Mày còn không bằng con chó, còn bò... Lâu lâu lại nhắc lại, còn đánh thì rất đau". Em Ngân Anh, 13 tuổi, ở Hà Nội từng chứng kiến một bạn hàng xóm trên em một lớp bị mẹ bạo hành. "Bố chị ấy mất sớm. Một lần không biết lý do vì sao mà mẹ đánh chị ấy, bắt cởi hết quần áo, bắt đứng ra đường và cầm roi vụt. Đó là bạo lực cả về thể chất và tâm lý", Ngân Anh kể. Theo bà Phương Linh, không có giáo dục bằng bạo lực, cũng không có khái niệm "bạo lực an toàn". Có nhiều cha mẹ vẫn đánh mắng con hàng ngày, lúc đầu là cái đánh tay, tét mông, sau đó là trận đòn bằng roi mây, roi da... Bản chất của bạo lực và cái ác lúc nào cũng leo thang như thế, nếu thoả hiệp với nó, chúng ta sẽ bắt đầu nghĩ là bình thường và tăng mức độ lên.

Nhằm định hướng xã hội nhìn nhận vấn nạn bạo lực gia đình một cách nghiêm túc, mỗi gia đình, cá nhân có những hành động thiết thực Quốc hội đã ban hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Văn bản quy định chi tiết về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Phạm vi điều chỉnh của luật này mở rộng ra cả những đôi nam nữ không đăng ký kết hôn nhưng chung sống với nhau như vợ chồng… Nạn nhân bị bạo lực gia đình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ quyền lợi cho mình. Họ sau đó còn được bố trí nơi tạm lánh, và địa điểm này được giữ bí mật. Thậm chí, tòa án có quyền ra quyết định cấm người có hành vi bạo lực không được tiếp xúc với nạn nhân khi thấy việc này là cần thiết hoặc nạn nhân có đơn yêu cầu… Khi gia đình có việc tang lễ, cưới hỏi hoặc các trường hợp đặc biệt khác cần phải tiếp xúc thì người có hành vi bạo lực gia đình phải báo cáo với người đứng đầu cộng đồng dân cư nơi cư trú của nạn nhân. Trình tự giải quyết được thực hiện tương tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Theo đó, quy định về phòng ngừa bằng việc thông tin, tuyên truyền về tác hại của bạo lực gia đình, các biện pháp phòng chống bạo lực, kiến thức về hôn nhân, gia đình một cách chính xác, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh, truyền thống văn hóa dân tộc. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình nhằm tránh gây ra bạo lực, những hành vi mất kiểm soát tác động tiêu cực đến trẻ em. Bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình bằng biện pháp cấm tiếp xúc – không cho phép người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân trong khoảng cách dưới 30m; trừ trường hợp giữa họ có vật ngăn cách bảo đảm an toàn cho nạn nhân; sử dụng điện thoại, fax, thư điện tử hoặc các phương tiện thông tin khác để thực hiện hành vi bạo lực với nạn nhân. Kịp thời phát hiện, báo tin cho cơ quan chức năng gần nhất về vụ việc bạo lực, vận dụng mọi biện pháp chặn đứng hành vi bạo lực, đe dọa xâm hại trẻ em và các thành viên khác trong gia đình.

Xã hội đang mặc định kết hôn là sinh con, trong khi rất nhiều người chưa sẵn sàng và không có kiến thức nuôi dạy con. Để giải quyết trọn vẹn vấn nạn bạo hành trẻ em phải đi vào gốc rễ, bên cạnh các khóa học tiền hôn nhân bắt buộc, các cặp vợ chồng cần được học các khóa làm cha mẹ trước khi sinh con. Đồng thời phải thay đổi quan niệm coi con cái như tài sản của mình nên tùy ý "cho roi cho vọt". Người dân cần phải được trang bị kiến thức để lên tiếng bảo vệ trẻ em, cần phải biết các đường dây nóng để tố cáo bạo hành. Mỗi nhà trường cần phải có phòng tâm lý và dạy các con gặp khó khăn phải chia sẻ. "Xã hội càng thiên về vật chất thì gặp vấn đề tâm lý càng nhiều. Nguyên nhân trẻ em bị bạo hành thường xuất phát từ mâu thuẫn của người lớn".

Ví dụ như vụ việc ở xã Tam Hải, huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam gần đây, người cha ném con gái 5 tuổi xuống sông Trường Giang để trả thù vợ do nghi ngờ vợ ngoại tình, gọi điện vợ không nghe máy. Đi ngược hoàn toàn với đạo đức trách nhiệm của người làm cha mẹ, nghĩa vụ của một gia đình là xây dựng mái ấm chăm sóc bảo vệ cho sự sống, sự phát triển của con em mình thì bé gái trong vụ việc trên lại trở thành nạn nhân của mâu thuẫn gia đình, sự nông nổi, hành động mất nhân tính của người cha đã hủy hoại sự sống của một đứa trẻ mới 5 tuổi.

Hay sự việc ở Thạch Thất, Hà Nội gây phẫn nộ trong dư luận. Trong quá trình sinh sống, cha dượng nảy sinh ý định hành hạ, đánh đập và giết con riêng của vợ để không phải nuôi dưỡng, ảnh hưởng đến cuộc sống 2 người. Do đó, không ít lần Huyên đã có những hành vi ngược đãi cháu Ánh (sinh năm 2018) như: cho uống thuốc diệt cỏ, bắt nuốt đinh ốc vít, đánh gãy tay phải của bé. Lần gần nhất hành vi của Huyên mới được phát giác đó là ngày 17/1/2022, chỉ vì gọi mà cháu Ánh không trả lời, Huyên đã tát cháu nhiều lần sau đó dùng tạ đóng 9 chiếc đinh quanh đầu bé khiến cho cháu rơi vào tình trạng nguy kịch phải vào Xanhpol điều trị. Đến ngày 12/3/2022 cháu đã tử vong

Để phù hợp với tình hình xã hội hiện nay, kịp thời xử lý vi phạm và ngăn cản hành vi có ý định vi phạm quy định phòng, chống bạo lực gia đình, Chính phủ ban hành Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị định này đã tăng mức phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm trật tự xã hội so với quy định trước đây tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ 02 - 03 triệu đồng lên 05 - 08 triệu đồng; Hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình từ 1,5 - 02 triệu đồng lên đến 10 - 20 triệu đồng; Sử dụng hoặc cho trẻ em sử dụng các loại đồ chơi nguy hiểm bị cấm, hành vi gián tiếp gây tổn hại đến sức khỏe của trẻ em từ 500.000 đồng - 01 triệu đồng lên đến 01 - 02 triệu đồng. Việc nâng mức phạt vi phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc răn đe những đối tượng có nguy cơ phạm tội, khẳng định sự quan tâm sát sao của pháp luật đối với quyền, lợi ích và sự an toàn của trẻ em. Ngoài ra Nghị định số 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em cũng nâng gấp đôi mức xử phạt nhóm hành vi bạo lực với trẻ em so với Nghị định cũ và có quy định mức phạt tiền từ 10-20 triệu đồng áp dụng cho các hành vi bạo lực với trẻ em như : bắt nhịn ăn, nhịn uống, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân; bắt sống ở nơi có môi trường độc hại, nguy hiểm hoặc các hình thức đối xử tồi tệ khác với trẻ em; cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em có hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em sẽ bị phạt từ 20-25 triệu đồng.

Do đó, nếu phát hiện trường hợp trẻ bị bạo hành, xâm hại và ngược đãi, người dân nên thông báo ngay cho các cấp chính quyền để xử lý kịp thời. Đồng thời, gọi ngay cho tổng đài 113 để được hỗ trợ, ngăn chặn hoặc xác định có người đang bị bạo lực, có nguy cơ bị xâm hại, bị bạo lực; tổng đài 115 để được trợ giúp về y tế khẩn cấp khi bị bạo lực bạo hành và số máy trực ban hình sự của cơ quan Công an địa phương khi muốn trình báo, tố giác hoặc cung cấp, báo tin về các hành vi, sự việc bạo lực trẻ em… Để bảo vệ trẻ em khỏi những nguy hiểm, cạm bẫy trong cuộc sống, ngay khi phát hiện trẻ có dấu hiệu bị bạo hành thể xác hoặc tinh thần, chính quyền địa phương nơi trẻ ở phải cách ly trẻ khỏi người giám hộ ngay lập tức… Cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp chính quyền và ban ngành, đoàn thể ở cơ sở trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến kiến thức về quyền trẻ em và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đến từng gia đình, khu phố…

2.3. Bạo lực học đường

Hiện nay, ngôi nhà và mái trường là những nơi trẻ em gắn bó thường xuyên, dành hầu hết thời gian để học tập, phát triển và nhận thức ở đó. Trường học, thầy cô, bạn bè là nơi có nền tảng giáo dục văn minh, khoa học, điểm kết nối, giao lưu tạo dựng các mối quan hệ trong sáng, tốt đẹp và được cha mẹ gia đình coi là địa điểm lý tưởng, hoàn toàn yên tâm để gửi gắm con em mình vào đó. Tuy nhiên gần đây, vấn nạn bạo lực học đường lại xảy ra thường xuyên đến mức đáng báo động.

Nó có mặt trong mọi cấp học, từ mầm non, tiểu học đến trung học: thầy cô bạo hành học sinh, bạn bè gây gổ bạo lực với nhau. Hiện tượng bạo lực không phải là hiện tượng mới, song thời gian gần đây hiện tượng này xảy ra liên tục hơn trong các trường học bộc lộ tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng hơn. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, toàn quốc xảy ra gần 1600 vụ học sinh đánh nhau chỉ trong một năm học. Đây là một con số đáng báo động và cần được chú ý quan tâm. Cũng với một số thống kê khác ước tính rằng ở Việt Nam cứ khoảng 5.200 học sinh thì sẽ có một vụ đánh nhau và cứ 11.000 học sinh thì có một học sinh bị đình chỉ học tập vì lý do đánh nhau. Điều đáng lo ngại là lý do dẫn đến bạo lực đôi khi rất đơn giản như va chạm trong lúc chơi đùa, trên đường đi học, mâu thuẫn nói xấu nhau trên các diễn đàn, mạng xã hội,…

Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, ngang ngược, bất chấp công lý, đạo lý, xúc phạm trấn áp người khác gây nên những tổn thương về tinh thần và thể xác diễn ra trong phạm vi trường học. Bạo lực học đường về thể chất gồm đánh nhau giữa các học sinh, bứt tóc, xô đẩy, trấn lột, đổ đồ ăn lên người…; các dạng bắt nạt bạn học; và mang vũ khí đến trường sử dụng hoặc các hình phạt thể chất của nhà trường. Những đứa trẻ có hành vi bạo lực, lạm dụng quyền hành từ khi còn nhỏ, khi lớn lên có thể mắc phải những hành vi tội ác nhiều hơn những đứa trẻ khác. Trẻ em liên lụy vào hành vi bạo lực dù ở vai trò này hay vai trò kia cũng đều có nguy cơ lạm dụng rượu, thuốc lá, và các loại ma túy. Ngoài ra, những hành vi bạo lực học đường của học sinh sẽ trở thành nỗi bất an của phụ huynh khi gửi con em mình đến trường, làm mất đi ý nghĩa của môi trường giáo dục lạnh mạnh trong sáng.

Chẳng hạn như sự việc xảy ra ở một trường mầm non công lập thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội vào cuối năm 2020. Cô giáo tát bé 21 tháng thâm tím mặt, sau khi bị đánh mất mấy hôm con bị sốt và có biểu hiện sợ hãi người lạ, cứ bám chặt bố mẹ với bà nội, cả đêm khóc rên liên tục.

Kể cả những em chỉ chứng kiến chứ không tham gia hành vi bạo lực cũng bị ảnh hưởng. Chứng kiến những hành vi bạo lực khiến các em cảm thấy sợ hãi, và nếu thấy những kẻ gây ra bạo lực không bị trừng trị thì những em chứng kiến cũng có thể hùa theo số đông, ủng hộ hành vi này, và có nhiều khả năng trở thành kẻ có hành vi bạo lực trong tương lai.

Những hậu quả mà bạo lực học đường gây ra kể cả thể xác hay tinh thần cũng đều trực tiếp ảnh hưởng đến công việc học tập cũng như tương lai của học sinh nếu không được can thiệp kịp thời. Với những ảnh hưởng về mặt sức khỏe cùng với tâm lý lo lắng, căng thẳng, sợ hãi, học sinh không thể học tập với kết quả tốt nhất có thể. Thậm chí, sự căng thẳng quá mức về mặt tâm lý có thể buộc học sinh kết thúc việc học của mình, hoặc cũng có thể vì gây ra hành vi bạo lực mà học sinh phải nhận kỷ luật đuổi học. Từ đó, tương lai của các em rẽ sang một bước ngoặt khác không mấy khả quan. Hành vi bạo lực không chỉ tác động xấu đến nạn nhân mà còn khiến không khí trường học trở nên nặng nề, căng thẳng với nỗi sợ hãi, bất an luôn bao trùm.

Ví dụ như vụ án nam sinh lớp 11 đâm chết bạn ở Hà Nam. Thông tin từ Công an tỉnh Hà Nam, khoảng 17h ngày 13/12/2021, Trần Minh Đức (trú huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) dùng dao bấm để trong cốp xe máy đâm N.Q.H (cùng sinh năm 2005) tử vong. Vụ việc xảy ra tại thị trấn Bình Mỹ, huyện Bình Lục

Hay trước đó năm 2020, cơ quan công an đã tạm giữ nam sinh lớp 9 đánh bạn tử vong ở Hà Nam để điều tra về hành vi cố ý gây thương tích, do mâu thuẫn dẫn đến xô xát, nam sinh có dùng tay đấm vào vùng đầu và bụng của bạn khiến bạn bị ngất. Dù đã được nhanh chóng đưa đi cấp cứu nhưng em đã tử vong ngay sau đó.

Pháp luật có nghiêm cấm trong cơ sở giáo dục những hành vi xâm phạm thân thể trẻ em của giáo viên, của bạn học với nhau, đối xử không công bằng đối với trẻ trong Luật giáo dục 2019, Thông tư 52/2020/TT-BGDĐT ban hành Điều lệ Trường mầm non. Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 28 Nghị định 04/2021/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục quy định: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi xâm phạm thân thể người học nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.   

Vụ việc nữ sinh bị đánh hội đồng, quay clip gửi cho người thân để "dằn mặt". Ngày 28/9/2021,  em T. (lớp 9) bị 3 nữ sinh vây đánh và 1 em đứng quay clip. Sau đó, 1 em trong nhóm đánh nhau này đã gửi đoạn clip trên cho chị gái của nạn nhân như để hù dọa, "dằn mặt". Nguyên nhân đánh nhau bước đầu được xác định do các nữ sinh có lời qua tiếng lại, nói xấu nhau trên mạng xã hội Facebook.

Đối với trường hợp này, pháp luật đã có quy định “xâm phạm thân thể học sinh khác” là hành vi học sinh không được làm tại Điều 37 Thông tư 32/2020/TT- BGDĐT Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học. Nếu việc đánh bạn nếu đánh nhau có tổ chức và gây thương tích cho người khác thì mức xử phạt theo Thông tư số 08/TT quy định về việc khen thưởng và kỉ luật học sinh các trường phổ thông ngày 21 tháng 3 năm 1988  Đuổi học 1 năm.                                                                                                                                                                                            

Tùy theo động cơ, mục đích và mức độ nghiêm trọng của hậu quả để lại, người thực hiện bạo hành trẻ em có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính (bồi thường tiền) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (ngồi tù, chung thân, tử hình).             Theo khoản 1 Điều 12 BLHS 2015, hành vi bạo lực được thực hiện bởi giáo viên hay bạn học từ đủ 16 tuổi trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một trong các tội sau:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với trẻ em với mức phạt tù cao nhất là 20 năm tù hoặc tù chung thân  (theo Điều 134 Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định);

Tội vô ý làm chết người với mức phạt tù cao nhất là 5 năm (theo khoản 1 Điều 128 BLHS quy định);

Tội giết người mà nạn nhân là trẻ em thì mức phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình (theo điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS quy định).

Đối với tội phạm là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. (khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 sửa đổi năm 2017). Trường hợp bạn học ở độ tuổi này là tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng thì không truy cứu trách nhiệm hình sự mà áp dụng biện pháp xử phạt hành chính theo Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý” và hình thức cảnh cáo đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện (theo Điều 22 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012).

Người dưới 14 tuổi không đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội. Người dưới 14 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo Điều 90, 92 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020):

+ Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

+ Áp dụng biện pháp đưa vào trại giáo dưỡng với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Ngoài ra, người thực hiện hành vi hành hạ, ngược đãi đối với trẻ em còn phải bồi thường cho cha mẹ hoặc người giám hộ của các bé số tiền để bù đắp những tổn thất vật chất thực tế và tổn thất tinh thần. Trách nhiệm phòng tránh bạo lực học đường là nhiệm vụ cấp thiết, đặt ra yêu cầu hành động với mọi đối tượng. Trước hết là đối với học sinh, đối tượng vừa có thể trở thành chủ thể vừa là nạn nhân của hành vi: Tích cực rèn luyện kĩ năng sống; chấp hành tốt nội quy trường lớp; tránh xa bạo lực, nói không với bạo lực; nếu thấy hiện tượng bạo lực phải kịp thời báo ngay cho nhà trường, thầy cô giáo hoặc cơ quan có thẩm quyền; học cách kiềm chế cảm xúc; tích cực tham gia vào các hoạt động tình nguyện mà nhà trường tổ chức nhằn tăng tính thiện và tính hướng thiện trong con người các em.

Đối với nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục:

Thứ nhất, chú trọng xây dựng môi trường giáo dục trong lành và thân thiện bằng việc giảm áp lực về thi cử, điểm số, thành tích và chú trọng hơn vào các hoạt động hướng đến sự trải nghiệm giá trị sống tích cực, giáo dục kỹ năng sống thiết thực và hữu ích. Để học sinh cảm nhận được sự yêu thương và quan tâm từ chính những giáo viên và những người bạn ở trường học.

Thứ hai, tăng cường vai trò của môn giáo dục công dân và đạo đức trong trường phổ thông cần được nhận thức đúng mức để điều chuyển cách tiếp cận lý thuyết, ứng dụng vào tình huống thực tế.

Thứ ba, tích cực hoàn thiện bộ rèn luyện kỹ năng sống và đưa bộ môn dạy kỹ năng sống vào trong nhà trường. Tổ chức các hoạt động sân trường, hoạt động tình nguyện mang tính hướng thiện và định hướng nhân cách cho học sinh, giúp học sinh phát huy những đức tính tốt đẹp trong bản thân.

Thứ tư, có hình phạt và cách giáo dục nghiêm khắc, phù hợp đối với những học sinh gây ra bạo lực, và có hình thức hỗ trợ kịp thời đối với nạn nhân của các vụ bạo lực.

Đối với giáo viên:

* Thường xuyên quan tâm, theo dõi và nắm bắt tình hình của các em học sinh trong lớp mình chủ nhiệm hoặc tham gia giảng dạy đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm và giáo viên tham gia dạy kỹ năng sống.

* Có biện pháp can ngăn giáo dục kịp thời đối với hiện tượng có nguy cơ dẫn đến bạo lực đối với học sinh trong lớp chủ nhiệm hoặc tham gia giảng dạy.

* Phối hợp với gia đình và nhà trường để quan tâm và hỗ trợ kịp thời những khó khăn vướng mắc của học sinh.

Đối với gia đình:

* Bố mẹ cần tạo ra một môi trường sống lành mạnh, yêu thương, quan tâm, gần gũi với con cái

* Đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để kịp thời nắm bắt tình hình học tập của con em mình tại trường học.

3. Xâm hại tình dục

Trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm xâm hại tình dục trẻ em diễn biến hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn mới, không những diễn ra ở nơi công cộng mà còn diễn ra trong gia đình, nơi được coi là tổ ấm của các em. Nó không chỉ gây tổn thương thể chất và những hậu quả nhất thời mà còn có thể ảnh hưởng lâu dài. Những hậu quả lâu dài biểu hiện từ nhẹ đến những rối loạn rất nặng. Những rối loạn này không chỉ liên quan đến sức khỏe sinh sản mà còn liên quan đến khả năng học tập, khả năng hòa nhập cũng như đối với sức khỏe tâm thần của trẻ.Trong thời gian gần đây, trên cả nước xảy ra hàng loạt vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, gây bức xúc dư luận và gây hoang mang cho nhiều bậc phụ huynh. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 - 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%.

Việt Nam là quốc gia sớm nhất tại khu vực châu Á đã phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực ngày 02/9/1990 và các nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em, khiêu dâm trẻ em. Như vậy có nghĩa là Việt Nam đã thừa nhận rất nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em; bảo vệ trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục, bị bóc lột tình dục, bị mua bán hoặc bị sử dụng vào mục đích khiêu dâm theo quy định của luật pháp quốc tế.

Trên tinh thần thực hiện Công ước, Luật Trẻ em 2016 đã quy định hành vi xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em bị nghiêm cấm (theo khoản 3 Điều 6), cụ thể tại Khoản 7, 8 Điều 4 có giải thích: “Bóc lột trẻ em là hành vi bắt trẻ em lao động trái quy định của pháp luật về lao động; trình diễn hoặc sản xuất sản phẩm khiêu dâm; tổ chức, hỗ trợ hoạt động du lịch nhằm mục đích xâm hại tình dục trẻ em; cho, nhận hoặc cung cấp trẻ em để hoạt động mại dâm và các hành vi khác sử dụng trẻ em để trục lợi.”

Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức.”

Đối tượng xâm hại có thể là người quen thân thiết như chú, bác, anh, em, hàng xóm,... hay những người không quen biết, có cả nam, nữ mọi lứa tuổi. Hành vi xâm hại tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục của trẻ, thủ dâm, tiếp xúc miệng với bộ phận sinh dục, giao hợp bằng ngón tay, giao hợp qua đường sinh dục hoặc hậu môn. Xâm hại tình dục ở trẻ em không chỉ giới hạn vào các tiếp xúc cơ thể mà còn bao gồm cả những hành vi không tiếp xúc như khoe bộ phận sinh dục cho trẻ thấy, kể cho trẻ nghe về tình dục, cho xem phim, truyện khiêu dâm, tìm cách hướng dẫn, kích thích tình dục trẻ, rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ em. Hành vi này sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: Làm tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, tâm lý, sức khoẻ của trẻ; Gây hoang mang, lo lắng cho gia đình và xã hội; Làm ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em, của dân tộc; Làm gia tăng tệ nạn mại dâm, tệ nạn buôn bán trẻ em, tăng sự lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây qua đường tình dục; Gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta.

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định cấm các hành vi lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để xâm phạm tình dục theo khoản 2 Điều 5. Lợi dụng điều kiện gần gũi, thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng chăm sóc để xâm phạm quyền riêng tư, thân thể của con nhằm những mục đích đê hèn đồi trụy, thiếu đạo đức. Thực tế hiện nay không ít những trường hợp xâm phạm tình dục đối với trẻ em xuất phát từ chính cha mẹ, những người sinh ra chúng, người gần gũi, chăm sóc bảo vệ mà chúng tin tưởng nhất. Ví dụ vụ án bé gái 12 tuổi ở Sơn La, bị cha dượng xâm hại tình dục đến 8 lần từ lúc mới 10 tuổi, dẫn tới có thai mới bị phát hiện.

Hay vụ việc hồi đầu tháng 3/2021, do mâu thuẫn với chị gái, Hậu đã đến nhà chị V và gặp cháu Đ.N.M (SN: 2014) là con gái của chị V: dùng gậy đánh vào khuỷu tay và đầu gối cháu M, sau đó dùng băng dính dán miệng và quấn quanh bụng, tay trái cháu M vào ghế không cho cháu chống cự, kêu la; bắt cháu M cởi quần ra và lấy đũa chuẩn bị từ trước chọc vào vùng kín của cháu. Ngày 14/6/2021, CAH Đông Anh đã ra quyết định khởi tố vụ án dâm ô đối với người dưới 16 tuổi để xử lý đối tượng Nguyễn Trọng Hậu theo pháp luật.

Một đứa trẻ bị lạm dụng sẽ sống trong nỗi sợ hãi và đau đớn liên tục trong thời gian rất dài. Tuy vết thương trên thân xác có thể được chữa lành, song vết thương trong tâm hồn sẽ dai dẳng, kéo dài suốt cuộc đời các em. Trẻ em là nhân chứng thường xuyên của bạo lực, sẽ có những ảnh hưởng sâu xa trong tiềm thức, điều này khiến cho đứa trẻ dễ học theo và trở thành một người bạo lực hoặc nạn nhân của bạo lực trong tương lai; vòng luẩn quẩn bạo lực từ đó cứ tiếp tục diễn ra và khó chấm dứt.

Hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục cũng là một trong những hành vi bạo lực gia đình bị cấm trong Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi năm 2017 xâm hại tình dục trẻ em được cụ thể dưới các tội danh: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có thể bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân, hoặc tử hình (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân(Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phạt tù đến 15 năm (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) bị phạt tù đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Ví dụ ngày 20/4/2021, Công an thành phố Phủ Lý đã tạm giữ hình sự đối tượng Nguyễn Hoàng Vươn, sinh năm 1971, trú tại tổ dân phố Hoàng Lương, phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, về hành vi dâm ô với người dưới 16 tuổi do có hành vi chặn đường và dâm ô cháu N (9 tuổi) trên đường đi học về.

* Theo điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.

Trong đó các từ ngữ được giải thích theo Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn xét xử xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi (sau gọi là Nghị quyết 06) như sau:

Hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào

Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:

* Người bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể chống cự được);

* Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).

Thủ đoạn khác bao gồm các thủ đoạn như:

* Đầu độc nạn nhân

* Cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác

* Hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

Trái với ý muốn của nạn nhân: là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm tội.

Điển hình như vụ án hồi tháng 10/2021 ở Bình Thuận, sau khi đặt vấn đề “đi qua đêm” với một nhân viên T 16 tuổi của quán karaoke và bị từ chối, một nhóm đối tượng đã ngang nhiên khống chế, ép T lên xe bất chấp nạn nhân bỏ chạy, cầu cứu các đối tượng đuổi theo nắm tay, ghì cổ chở đến khách sạn và thực hiện hành vi xâm hại.

* Về hành vi cưỡng dâm, Điều 143 BLHS 2015 định nghĩa như sau:

Cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

* Người lệ thuộc: 

Người lệ thuộc là trường hợp người bị hại bị lệ thuộc vào người phạm tội về vật chất (ví dụ: người bị hại được người phạm tội nuôi dưỡng, chu cấp chi phí sinh hoạt hàng ngày...) hoặc lệ thuộc về tinh thần, công việc, giáo dục, tín ngưỡng (ví dụ: người bị hại là người lao động làm thuê cho người phạm tội; người bị hại là học sinh trong lớp do người phạm tội là giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn...).

* Người đang ở trong tình trạng quẫn bách:

Người đang ở trong tình trạng quẫn bách là trường hợp người bị hại đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bức bách nhưng không tự mình khắc phục được mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác (ví dụ: không có tiền chữa bệnh hiểm nghèo; không có tiền để chuộc con mình đang bị bắt cóc, lợi dụng hoàn cảnh đang nợ tiền của nạn nhân, ép buộc nạn nhân giao cấu để trừ nợ...).

* Dâm ô được định nghĩa theo điều 146 BLHS 2015 như sau:

Là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính đủ 18 tuổi trở lên tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (Ví dụ như lợi dụng việc nhờ đưa đón bé gái, đối tượng có hành vi ôm hôn, sờ chỗ kín của bé gái đó)

Dâm ô gồm các hành động:

* Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

* Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

* Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

* Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;

Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).

Chẳng hạn như vụ việc gần đây tại Bình Dương, Công an đang tiến hành điều tra làm rõ vụ việc một thầy giáo bị tố cáo có hành vi xâm hại tình dục với một nữ học sinh lớp 2, trong giờ nghỉ trưa ngày 23/02/2022 khi cả lớp đang nghỉ trưa, thầy giáo T có gọi em lên bục giảng nơi thầy đang nằm, rồi lấy khẩu trang che mắt em Y.N sau đó thực hiện hành vi xâm hại tình dục (bằng miệng).

* Theo Nghị quyết 06, giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.

Bên cạnh đó, đối với những hành vi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn có xử lý vi phạm hành chính, theo đó Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình có nội dung:

Điều 7 quy định phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; Sàm sỡ, quấy rối tình dục; Khiêu dâm, kích dục ở nơi công cộng;

Điều 55 quy định phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong những hành vi: Cưỡng ép thành viên gia đình thực hiện các hành động khiêu dâm, sử dụng các loại thuốc kích dục; Có hành vi kích động tình dục hoặc lạm dụng thân thể đối với thành viên gia đình.

Như vậy so với Nghị định 167/2013/NĐ-CP, hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự; sàm sỡ, quấy rối tình dục đã tăng mức phạt từ 100.000 - 300.000 đồng lên 05 - 08 triệu đồng nhằm tăng tính răn đe, phục vụ mục đích ngăn chặn những hành vi vi phạm tiếp diễn.

Quy định mới này có ý nghĩa thiết thực và được đánh giá cao trong thực trạng quấy rối tình dục ở trường học. Đây là một vấn nạn đã tồn tại từ lâu, không chỉ tại Việt Nam, nó được thể hiện dưới nhiều hình thức, hành vi với nhiều mức độ khác nhau. Trước hết, việc quấy rối tình dục thực hiện bằng lời nói, ở đó, kẻ quấy rối dùng những lời lẽ trêu ghẹo, bình phẩm hoặc đề cập đến những vấn đề nhạy cảm với người khác; ví dụ như nhận xét, bỡn cợt bộ phận trên cơ thể của một người nào đó; đề cập đến các vấn đề tình dục với người khác...

Quấy rối tình dục cũng được biểu hiện thông qua hành động dùng tay, chân hoặc các bộ phận trên khác trên cơ thể đụng chạm vào cơ thể người khác một cách cố ý; hay một số hành động phản cảm (khoe cơ thể hoặc bộ phận sinh dục trước mặt người khác, vỗ mông người khác, dùng tay hoặc chân chạm lên đùi, khoác vai người khác giới quá sát, cố ý đứng hoặc kề sát mặt vào cơ thể người khác, hôn người khác khi không được sự đồng ý của họ). Với những hành vi nghiêm trọng hơn, thể hiện qua việc cưỡng ép, xâm hại tình dục, ép buộc người khác tham gia vào hoạt động tình dục khi họ không đồng ý. Đây là mức độ cao nhất và cũng gây hậu quả nặng nề nhất với nạn nhân.

Theo các chuyên gia, hiện nay, trong bối cảnh mạng lưới Internet mở rộng và phát triển, còn xuất hiện một hình thức quấy rối mới đó chính là: “Quấy rối tình dục thông qua mạng xã hội” Hình thức quấy rối này được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như: Dụ dỗ, lôi kéo hoặc ép buộc người khác tham gia vào các cuộc trò chuyện mang tính chất nhạy cảm, liên quan đến tình dục (nhắn tin văn bản, tin nhắn thoại, gọi video, chia sẻ hình ảnh nhạy cảm…). Thậm chí, nhiều trường hợp, đối tượng còn hăm dọa hoặc thực hiện việc lan truyền những hình ảnh, tin nhắn, video nhạy cảm cho nhiều người khác biết. Và cứ như vậy, nạn nhân sẽ phải chấp nhận tiếp tục bị quấy rối tình dục và khó có khả năng kháng cự.

Do đó, người dân cần nắm bắt được quy định của pháp luật để áp dụng, phòng vệ cho bản thân và những người xung quanh. Những quy định của pháp luật chính là công cụ tự vệ, phòng chống hiệu quả và có tính răn đe lớn nhất, cần được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi để chặn đứng những hành vi xâm hại, quấy rối tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng

Trong xã hội phát triển như hiện nay, hội nhập thế giới cho ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thử thách, người dân hiểu biết hơn, có lối sống văn minh hơn nhưng cũng xuất hiện những hành vi phạm tội với nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp, khó phát hiện hơn. Để giải quyết vấn đề đó, đặt ra yêu cầu đối với các nhà làm luật cần kịp thời phân tích, nắm bắt tâm lý tội phạm, nêu ra những điển hình của các loại tội phạm để người dân phòng tránh, đồng thời điều chỉnh, đa dạng các điều luật để bảo đảm bảo vệ người dân từ mọi khía cạnh, ở mọi mức độ, trong đó đặc biệt là trẻ em - tương lai của đất nước, mầm non để chúng ta nâng niu và phát triển.. Nếu trẻ em trong mỗi gia đình đều được thương yêu, bảo vệ, được tạo điều kiện học hành và phát triển một cách toàn diện thì chắc chắn tất cả trẻ em trong xã hội sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội, tiến tới xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh.

Thanh Trà

Các tin khác

TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TỈNH HÀ NAM

Bản quyền thuộc Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam

Người chịu trách nhiệm: Ông Bùi Đức Thái - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam

Địa chỉ: Đường Lê Chân - Phường Lê Hồng Phong - TP. Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam

Điện thoại: (84 - 226) 3852730 / Fax: (84 - 226) 3852730  -  Email: stp@hanam.gov.vn